TT - Vì sao không thể sử dụng các loại giấy tờ tùy thân khác ngoài chứng minh nhân dân (CMND) khi gửi tiền ngân hàng (NH)? Ông Trần Ngọc Minh - giám đốc NH Nhà nước TP.HCM - trả lời:
TT - Vì sao không thể sử dụng các loại giấy tờ tùy thân khác ngoài chứng minh nhân dân (CMND) khi gửi tiền ngân hàng (NH)? Ông Trần Ngọc Minh - giám đốc NH Nhà nước TP.HCM - trả lời:
Tại Khoản 1, Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính về thuế GTGT quy định các trường hợp kê khai, tính nộp thuế GTGT như sau
Tổ chức, cá nhân nhận các khoản thu về bồi thường bằng tiền (bao gồm cả tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất khi bị thu hồi đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền chuyển nhượng.quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác.
a) Trường hợp không kê khai, tính thuế GTGT
Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng. quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chỉ tiền, căn cứ mục đích chỉ để lập chứng từ chi tiền.
b) Trường hợp kê khai, tính và nộp thuế GTGT
Trường hợp bồi thường bằng hàng hoá, dịch vụ, cơ sở bồi thường phải lập hoá đơn và kê khai, tính, nộp thuế GTGT như đối với bán hàng hoá, dịch vụ, cơ sở nhận bồi thường kê khai, khấu trừ theo quy định.
Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải kê khai, nộp thuế theo quy định.
Tìm hiểu thêm: Cách Nộp Phạt Thuế Điện Tử
Căn cứ Thông tư số 219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 của Bộ Tài chính hướng dẫn về thuế giá trị gia tăng (GTGT):
+ Tại Khoản 1 Điều 5 quy định các trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT:
“Tổ chức, cá nhân nhận các khoản thu về bồi thường bằng tiền (bao gồm cả tiền bồi thường về đất và tài sản trên đất khi bị thu hồi đất theo quyết định của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền), tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác.
Cơ sở kinh doanh khi nhận khoản tiền thu về bồi thường, tiền thưởng, tiền hỗ trợ nhận được, tiền chuyển nhượng quyền phát thải và các khoản thu tài chính khác thì lập chứng từ thu theo quy định. Đối với cơ sở kinh doanh chi tiền, căn cứ mục đích chi để lập chứng từ chi tiền.
Trường hợp bồi thường bằng hàng hóa, dịch vụ, cơ sở bồi thường phải lập hóa đơn và kê khai, tính, nộp thuế GTGT như đối với bán hàng hóa, dịch vụ; cơ sở nhận bồi thường kê khai, khấu trừ theo quy định.
Trường hợp cơ sở kinh doanh nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải kê khai, nộp thuế theo quy định.”
+ Tại Khoản 22 Điều 7 quy định giá tính thuế:
“Trường hợp cơ sở kinh doanh áp dụng hình thức chiết khấu thương mại dành cho khách hàng (nếu có) thì giá tính thuế GTGT là giá bán đã chiết khấu thương mại dành cho khách hàng. Trường hợp việc chiết khấu thương mại căn cứ vào số lượng, doanh số hàng hóa, dịch vụ thì số tiền chiết khấu của hàng hóa đã bán được tính điều chỉnh trên hóa đơn bán hàng hóa, dịch vụ của lần mua cuối cùng hoặc kỳ tiếp sau. Trường hợp số tiền chiết khấu được lập khi kết thúc chương trình (kỳ) chiết khấu hàng bán thì được lập hóa đơn điều chỉnh kèm bảng kê các số hóa đơn cần điều chỉnh, số tiền, tiền thuế điều chỉnh. Căn cứ vào hóa đơn điều chỉnh, bên bán và bên mua kê khai điều chỉnh doanh thu mua, bán, thuế đầu ra, đầu vào.”
Xem thêm: Cách viết hóa đơn chiết khấu thương mại
Tham khảo thêm tại Công văn số 47061/CTHN-TTHT của cục thuế TP. Hà Nội ngày 20/8/2024
"Căn cứ các quy định trên, trường hợp Trung tâm nhận các khoản tiền hỗ trợ theo quy định tại khoản 1 Điều 5 Thông tư số 219/2013/TT-BTC thì thuộc trường hợp không phải kê khai, tính nộp thuế GTGT, đơn vị lập chứng từ thu theo quy định.
Trường hợp Trung tâm nhận tiền của tổ chức, cá nhân để thực hiện dịch vụ cho tổ chức, cá nhân như sửa chữa, bảo hành, khuyến mại, quảng cáo thì phải lập hóa đơn theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP và phải ghi đầy đủ nội dung theo quy định tại Điều 10 Nghị định số 123/2020/NĐ-CP , đồng thời phải kê khai, nộp thuế theo quy định.
Đề nghị Trung tâm căn cứ tình hình thực tế đối chiếu với hàng hóa, dịch vụ mà đơn vị cung cấp và các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên để thực hiện theo đúng quy định."
Theo Công văn 4952/CT-TTHT ngày 31/5/2016 của Cục thuế. Thành phố Hồ Chí Minh quy định:
“Trường hợp Công ty có hỗ trợ cho nhà phân phối khoản chi phí tiếp thị bán hàng (bao gồm các khoản tiền lương, thưởng, bảo hiểm bắt buộc và các khoản khác) để nhà phân phối thuê nhân viên bán các sản phẩm của Công ty tại nhà phân phối và chi hỗ trợ cho mục đích bán hàng khác (chi phí mở và duy trì mã hàng, thẻ khách hàng, hỗ trợ trung tâm thu mua) thì khi nhận tiền nhà phân phối không phải lập hóa đơn.
Đối với các khoản thưởng theo doanh số, thưởng cho khách hàng thân thiết theo hình thức chiết khấu thương mại Công ty thực hiện theo hướng dẫn tại Khoản 22 Điều 7 Thông tư số 219/2013/TT-BTC.
Cục Thuế TP thông báo Công ty biết để thực hiện theo đúng quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật đã được trích dẫn tại văn bản này."
----------------------------------------------------------------------------------------------------
Chi phí tiếp thị bán hàng, thưởng, khuyến mãi cho nhân viên đại lý, nhà phân phối: Căn cứ các quy định nêu trên, trường hợp Công ty phát sinh các khoản chi phí tiếp thị bán hàng, chăm sóc khách hàng, trích thưởng khuyến mãi và chi hỗ trợ chi phí cho CBCNV để thực hiện các chương trình thi đua khuyến khích bán hàng nhằm thúc đẩy kinh doanh dịch vụ và phát triển thị trường tại các tỉnh, thành phố; các khoản chi này chi trực tiếp cho CBCNV của các Bưu điện tỉnh/ thành phố (là các đơn vị làm đại lý cung cấp dịch vụ cho Công ty) thì được tính vào chi phí được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định tại Điều 4 Thông tư 96/2015/TT-BTC ngày 22/06/2015 của Bộ Tài chính nếu đáp ứng các điều kiện: - Các khoản chi thực tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của Công ty. - Điều kiện hỗ trợ, mức hỗ trợ cho cán bộ công nhân viên được quy định cụ thể trong kế hoạch chương trình khuyến khích thi đua của Công ty và trong hợp đồng ký kết giữa Công ty và Tổng công ty. - Có đầy đủ bảng kê danh sách cán bộ công nhân viên được nhận tiền hỗ trợ theo đúng mức và điều kiện hỗ trợ mà Công ty và Tổng công ty đã ký kết theo hợp đồng. - Công ty thực hiện khấu trừ, kê khai, nộp thuế thu nhập cá nhân đối với các khoản chi hỗ trợ cho cán bộ công nhân viên theo hướng dẫn tại Điều 25 Thông tư số 111/2013/TT-BTC ngày 22/06/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện Luật Thuế thu nhập cá nhân. Cục Thuế TP Hà Nội trả lời để Công ty được biết./.
(Công văn số 76515/CT-TTHT ngày 23/11/2017 của Cục Thuế TP. Hà Nội)
Ngoài ra các bạn có thể xem thêm quy định về chi phí tiền thưởng, tiền hỗ trợ, tiền khuyến mãi, tiền bảo hành…
Chi tiết xem tại đây: Nhận tiền hỗ trợ bồi thường có phải xuất hóa đơn
Kế toán Thiên Ưng xin chúc các bạn thành công!
Theo Thông tư số 01/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều tại Thông tư số 21/2012 quy định về hoạt động cho vay, đi vay; mua, bán có kỳ hạn giấy tờ có giá giữa các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, các ngân hàng được phép gửi tiền lẫn nhau, song phải đáp ứng một số quy định.
Cụ thể, ngân hàng được thực hiện các hoạt động gửi tiền, nhận tiền gửi thanh toán và các giao dịch gửi tiền, nhận tiền gửi có kỳ hạn tối đa là 3 tháng tại các ngân hàng khác.
Tuy nhiên, để thực hiện việc gửi tiền giữa các ngân hàng thì tại thời điểm thực hiện giao dịch nhận tiền gửi, các ngân hàng không được có các khoản nợ quá hạn từ 10 ngày trở lên tại ngân hàng khác, trừ trường hợp Thống đốc Ngân hàng cho phép nhận tiền gửi.
Bên cạnh đó, các ngân hàng phải có quy định nội bộ về quy trình nghiệp vụ, quy trình quản lý rủi ro đối với các hoạt động gửi tiền, nhận tiền và các giao dịch chỉ được thực hiện tại trụ sở chính của ngân hàng đó.
Theo quy định hiện hành, ngân hàng chỉ được gửi tiền, nhận tiền gửi thanh toán và các giao dịch gửi tiền, nhận tiền gửi có kỳ hạn tối đa là 3 tháng tại các ngân hàng khác (Ảnh: Mạnh Quân).
Theo quy định cũ tại Thông tư số 21/2012, các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được gửi tiền, nhận tiền gửi (trừ tiền gửi thanh toán) tại tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài khác.
Thông tư số 21/2012 là văn bản đầu tiên quy định cụ thể về việc gửi tiền và nhận tiền gửi giữa các tổ chức tín dụng, thay thế cho Quyết định 1310/2001 trước đó chưa quy định về vấn đề này.
Còn đối với việc vay vốn trên thị trường liên ngân hàng, Thông tư số 01/2013 quy định hoạt động cho vay, đi vay chỉ được thực hiện thông qua trụ sở chính của tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Thời hạn giao dịch chỉ được thực hiện trong ngắn hạn (dưới 1 năm), loại bỏ cho vay liên ngân hàng trung hạn (1-5 năm) và dài hạn (trên 5 năm).
Lãi suất liên ngân hàng là lãi suất vay vốn của các ngân hàng với nhau thông qua thị trường 2 (thị trường liên ngân hàng) khi các đơn vị này thiếu lượng tiền dự trữ tại Ngân hàng Nhà nước. Theo quy định, mỗi ngân hàng đều phải duy trì một tỷ lệ tiền dự trữ bắt buộc.
Mức lãi suất này duy trì ở ngưỡng cao phản ánh thanh khoản của hệ thống khá hạn chế, điều này có thể gây áp lực lên lãi suất huy động và cho vay tại thị trường dân cư (thị trường 1).
Trước khi có quy định cụ thể về việc vay - gửi tiền giữa các ngân hàng, các đơn vị vẫn gửi tiền lẫn nhau. Tuy nhiên, việc này được phần lớn chuyên gia tại thời điểm đó đánh giá không làm tăng tổng lợi ích cho nền kinh tế do tiền gửi chỉ chảy trên thị trường 2 chứ không tạo ra tín dụng chảy ra nền kinh tế vào thị trường 1 hoặc đi vào thị trường 3 (thị trường đầu tư),