ÐK: Vinh phúc thay người kính sợ Chúa, và hằng đi trên đường quang minh Thiên Chúa.
ÐK: Vinh phúc thay người kính sợ Chúa, và hằng đi trên đường quang minh Thiên Chúa.
1. Cửa khẩu Tà Lùng - Thủy Khẩu
Cửa khẩu Tà Lùng thuộc bản Pò Tập thị trấn Tà Lùng huyện Phục Hòa tỉnh Cao Bằng, là cửa khẩu thông thương trực tiếp với cửa khẩu Thủy Khẩu, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Hồ Thang Hen là một hồ nước đẹp nhất nằm trong tổng số 36 hồ lớn nhỏ trong vùng rừng núi của huyện Trà Lĩnh. Nơi đây nổi tiếng bởi có cảnh đẹp thanh bình và dòng nước xanh mướt. Nằm cách TP Cao Bằng khoảng 50 km. Đây là một trong những địa điểm đang khiến dân phượt cuồng chân muốn "xách ba lô lên và đi".
Hồ Thang Hen với phong cảnh hữu tình làm mê đắm khách du lịch
Nếu đến Thang Hen vào mùa lúa chín, bạn sẽ được ngắm nhìn những dải lúa chín vàng đều tăm tắp đẹp tựa như một tấm thảm dệt khổng lồ từ bàn tay tạo hóa và "cảm thấy thỏa mãn" thính giác trong mùi lúa non thơm ngọt đầy kích thích.
Đèo Mã Phục thuộc địa phận xã Quốc Toản, huyện Trà Lĩnh, Cao Bằng. Đèo còn là ranh giới huyện Hòa An và huyện Trà Lĩnh.
Đèo nằm ở độ cao 700m so với mực nước biển, dài khoảng 3,5 km, nằm quanh co, uốn lượn theo triền núi đá vôi.
Đèo Mã Phục gắn liền với truyền thuyết về người anh hùng dân tộc Nùng Trí Cao
Người dân nơi đây kể lại rằng, vào thế kỷ 11 có vị thủ lĩnh Nùng Trí Cao đã lãnh đạo nhân dân Cao Bằng đánh tan quân Tống xâm lược, bảo vệ biên cương Tổ quốc. Khi đi ngang qua một thung lũng trong lần đánh trận trở về thì Nùng Trí Cao thấy ở phía xa có các nàng tiên mời chàng vào nghỉ ngơi. Dù cả người lẫn ngựa đều mệt nhoài nhưng chàng vẫn không dừng bước.
Đi đến đoạn đường đèo quanh co, hiểm trở, con ngựa của Nùng Trí Cao đã khuỵu xuống vì kiệt sức. Từ đó, địa điểm mà con ngựa của Nùng Trí Cao gục ngã được gọi là Mã Phục. Còn thung lũng nơi có các nàng tiên vẫy gọi Nùng Trí Cao được đặt tên là Lũng Riệc.
Cửa khẩu Trà Lĩnh còn được gọi với tên khác là cửa khẩu Hùng Quốc hay cửa khẩu Nà Đoỏng, là nơi thông thương trực tiếp với cửa khẩu Long Bang, thành phố Bách Sắc, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
"Tuyệt tình cốc" ở Cao Bằng còn có điểm đặc biệt là "núi thủng", một ngọn núi có lỗ hổng lớn, nằm giữa thung lũng hoa dại.
Một thung lũng có cảnh đẹp thanh bình ở huyện Trà Lĩnh (cách TP Cao Bằng khoảng 50 km) đang được nhiều dân xê dịch chia sẻ và gọi là "tuyệt tình cốc", ý nói nơi này là chốn thâm sơn cùng cốc nhưng cảnh sắc mê mẩn.
Tuyệt tình cốc ở Cao Bằng cũng đẹp không thua kém gì tuyệt tình cốc ở những nơi khác
Cửa khẩu Lý Vạn thuộc bản Lý Vạn, xã Lý Quốc, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng, là nơi thông thương trực tiếp với cửa khẩu Thạc Long, huyện Đại Tân, thành phố Sùng Tả, tỉnh Quảng Tây, Trung Quốc.
Đền thờ Pú Lương Quân còn được gọi là đền thờ Thần Nông, tại Bản Vạn, xã Bế Triều (Hòa An). Người dân địa phương còn gọi là slấn Pú Lương Quân, liên quan đến truyền thuyết Báo Luông - Slao Cải hoặc Pú Luông - Giả Cải.
Truyền thuyết được lưu truyền như sau: Một đôi vợ chồng khổng lồ gọi là Báo Luông - Slao Cải, đã có công khai sinh lập địa gây dựng nên non nước Cao Bằng. Ở vùng đất mới, ban đầu là hai anh em, khi còn trẻ đã cao lớn nên người anh gọi là Báo Luông (trai to), người em gái gọi là Slao Cải (gái lớn). Một hôm trời đất sầm tối lại, đen như mực, mưa đổ không ngớt, nước lũ dâng ào ào, mọi thứ đều chìm ngập và thiên hạ không ai chạy thoát. Hai anh em chui vào quả bầu khổng lồ trôi nổi nên đã được sống sót. Khi trời quang mây tạnh, nước rút, quả bầu mắc cạn, chạm vào quả đồi rộng lớn, tiếng Tày gọi là Vạn (đồi Vạn), Luông dìu Cải từ cuống bầu chui ra. Họ ngỡ ngàng nhìn về hướng Tây có một dãy núi cao mà nước không ngập tới. Luông dắt Cải đi tới đó, men đến chân núi thì họ phát hiện có một hang đá to, hang cạn, nước không ngập tới nên được gọi là Ngườm Bốc (nay thuộc xã Hồng Việt, Hòa An). Phía dưới hang Ngườm Bốc còn có một hang đá có dòng nước nguồn chảy ra ào ào trong vắt, gọi là Pác Ngườm, có rất nhiều cá, tôm, cua, ốc rất dễ bắt lấy về ăn ở trong hang để bảo đảm sự sống. Một đêm, bất chợt giông tố sấm sét đùng đùng đánh vào một thân cây to bốc cháy đen thui, lửa phát ra, có con ốc, con tắc kè ở trong cây chín, mùi thơm lừng nên hai anh em Báo Luông - Slao Cải thấy vậy mới biết dùng lửa và giữ lửa để sưởi ấm, để nướng các con vật ăn chín hằng ngày. Lâu ngày vỏ ốc trong hang Ngườm Bốc đã chất thành đống; nơi phát ra lửa gọi là Lũng Phầy (xã Hồng Việt, Hòa An).
Từ đó, cuộc sống mới đã đến với họ, thế rồi Slao Cải tự nhiên thấy trong người khác lạ, cái thai trong bụng đến ngày sinh nở, từ một bọc thai đẻ ra 100 con, trong đó, 50 trai, 50 gái. Báo Luông - Slao Cải trở thành bố mẹ, nuôi các con bằng nghề săn bắt và hái lượm. Đến khi biết bắt các con thú rừng về chăn nuôi thành gia súc, gia cầm và biết trồng trọt, biết phát hiện ra cây lúa (co khẩu) về trồng thành ruộng lúa, biết dùng hạt thóc chế thành hạt gạo, biết đổ thóc vào cối đá gọi là “dộc” và dùng cây giã gạo gọi là “dộc săm” (cối chày), biết hấp gạo trong lá chuối xuống hố đất rồi đun lửa nấu chín, gọi là “cươm khẩu” (nấu cơm)… Họ chăm sóc các con trưởng thành. Tên đặt của các con sau này trở thành các họ, như: Mã, Lê, Lương, Lâm, Tô, Vũ, Trương, Hoàng, Hà, Nông, Bế, Đoạn, Đàm, Đinh, Đào, Lý… Các con họ tỏa đi sinh sống ở khắp nơi, tên tuổi của họ còn gắn với địa danh từ xưa đến nay ở vùng đất Cao Bằng. Báo Luông - Slao Cải (thời trẻ) đến Pú Luông - Giả Cải (thời về già) ở cùng người con họ Bế ở Bản Vạn, xã Bế Triều hiện nay (người dân ở Bản Vạn mang họ Bế từ đó). Sau khi hai ông bà qua đời, để tưởng nhớ công đức sinh thành, các con lập đền thờ trên gò đất bên suối Sẩy (gọi là Tả Slẩy) giữa cánh đồng Bản Vạn. Đến nay, nhân dân địa phương (người Tày) vẫn gọi đó là đền thờ Pú Luông - Giả Cải, hay đền Pú Lương Quân, đền Thần Nông.
Chùa Đống Lân nằm trên gò Đống Lân (tiếng Tày là Đoỏng Lân), huyện Hòa An, tỉnh Cao Bằng.
Dưới thời nhà Lý (cuối thế kỷ XI), chùa Đống Lân được xây dựng để thờ Phật. Từ năm Tân Hợi niên hiệu Càn Thống 19 nhà Mạc, hoàng hậu nhà Mạc cho xây chùa theo hình chữ đinh, có hai bên hành lang và hậu đường, tăng phòng. Sau chùa là Ly cung của nhà Mạc. Chùa là nơi để hoàng hậu, công chúa tụng kinh niệm Phật.
Chùa Đà Quận được xây dựng vào đầu thế kỷ XVII, thời vua Càn Thống (Mạc Kính Cung) để thờ Đà Quận công Mạc Ngọc Liễn. Trong chùa có hai quả chuông cao bốn thước, năm tấc, chu vi tám thước chín tấc, ước nặng một tấn.
Hai quả chuông treo ở hai bên lầu gác đền thờ Hồng Liên công chúa. Quả chuông to: cao 1,75 m, miệng rộng 1,07m. Quả chuông nhỏ: cao 1m55, miệng rộng 0m95. Cả hai đều đúc bằng hợp kim đồng. Mỗi kỳ tế lễ xuân thu thì gõ chuông, chuông vang như sấm, chấn động trăm dặm. Chuông chùa Đà Quận là một di sản văn hoá quý báu của dân tộc, một di tích xứng đáng được gìn giữ và lưu truyền. Hàng năm nhân dân Cao Bằng đều đi trẩy hội chùa Đà Quận vào mùng 9 tháng Giêng.
Đền Kỳ Sầm thờ Khau Sầm Đại Vương Nùng Trí Cao xưa ở xã Tượng Cần, huyện Thạch Lâm (nay là Bản Ngần, xã Vĩnh Quang, thành phố Cao Bằng). Đền được dựng lên để thờ danh nhân lịch sử Nùng Trí Cao - nhân vật có liên quan đến sự nghiệp mở nước thời vua Lý Thái Tông thế kỷ XI, được triều đình nhà Lý phong "Thượng đẳng thần", xuân thu nhị kỳ. Các triều đại sau đều gia phong mỹ tự.
Theo "Đại Việt sử ký toàn thư", Nùng Trí Cao là con của Nùng Tồn Phúc - thủ lĩnh châu Thảng Do. Năm 1038, Nùng Tồn Phúc chiếm châu Vũ Lặc và Quảng Nguyên, xưng "Chiêu thánh hoàng đế", lập nước "Trường sinh", phong vợ làm "Minh đức hoàng hậu", phong con cả Trí Thông làm "Điền nha vương", đồng thời sắm sửa vũ khí, xây dựng thành trì.
Năm 1039, vua Lý Thái Tông thân chinh đem quân đánh Nùng Tồn Phúc, bắt Nùng Tồn Phúc và Trí Thông đem về kinh đô xử tử, Nùng Trí Cao cùng mẹ chạy đến động Lôi Hỏa, phía Tây Bắc Cao Bằng (thuộc địa phận tỉnh Quảng Tây- Trung Quốc ngày nay).
Năm 1041, hai mẹ con Nùng Trí Cao từ động Lôi Hỏa về chiếm châu Thảng Do, chiêu tập lực lượng, lập nước "Đại Lịch'" Triều đình nhà Lý cử quân lên đánh, bắt Nùng Trí Cao đem về kinh đô nhưng không trị tội mà còn cho Nùng Trí Cao giữ châu Thảng Do, đồng thời cai quản thêm các động: Lôi Hỏa, Bình, An, Bà, châu Tư Lang và được phong làm châu mục Quảng Nguyên
Năm 1043, vua Lý Thái Tông sai Ngụy Trưng đến châu Quảng Nguyên, phong cho Nùng Trí Cao tước "Thái Bảo"- một chức quan cao cấp thời Lý.
Năm 1048, Nùng Trí Cao nổi dậy ở động Vật Ác (thuộc đất Tống).
Năm 1050, Nùng Trí Cao chiếm động Vật Dương (thuộc đất Tống), lập nước "Nam Thiên", đặt niên hiệu Cảnh Thụy.
Năm 1052, sau khi dâng biểu xin cống vua Tống không được, Nùng Trí Cao đã dẫn 5000 quân tiến đánh thành Ung Châu, sau đó xưng "Nhân hậu hoàng đế" , đổi niên hiệu là "Khải Lịch", đặt quốc hiệu "Đại Nam".
Năm 1053, Địch Thanh (một viên tướng của nhà Tống) dã dẫn quân đi đánh Nùng Trí Cao, Nhà Lý sai Vũ Nhị mang quân tiếp ứng, nhưng do tình thế không cứu vãn nổi nên cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao chấm dứt.
Mặc dù do những hạn chế tất yếu, nhưng cuộc nổi dậy của Nùng Trí Cao đã chứng tỏ ý chí quật cường của các dân tộc thiểu số vùng biên giới chống lại các cuộc xâm lược của nhà Tống, góp phần bảo vệ biên cương phía Bắc của Tổ quốc. Hình ảnh nửa thực, nửa huyền thoại của Nùng Trí Cao đã in sâu trong tâm thức của nhiều dân tộc anh em như: Người Tày, người Nùng, Cờ Lao, La Chí... Phạm vi ảnh hưởng của Nùng Trí Cao không chỉ bó hẹp trong địa bàn tỉnh Cao Bằng, Lang Sơn, Hà Giang... mà còn ở một số nước láng giêng như: Trung Quốc, Thái Lan, Mian ma... Nùng Trí Cao được coi là biểu tượng của thánh thần, anh hùng văn hóa.
Đền Vua Lê dựng trên một gò đất cao phía Bắc thành Na Lữ, gò này gọi là gò con Long (tức gò rồng) - trong thành có 4 gò đất nổi lên được các triều đại vua phong kiến đặt cho 4 tên: Long, Ly, Quy, Phượng.
Theo truyền thuyết và những tư liệu lịch sử: Đền Vua Lê vốn là cung điện trong thành Na Lữ. Thành do Cao Biền nhà Đường xây dựng, sau Nùng Tồn Phúc (cha của Nùng Trí Cao) tiếp tục xây dựng từ thế kỷ XI. Nùng Tồn Phúc là thủ lĩnh châu Quảng Nguyên. Thời Lý Thái Tông niên hiệu Thông Thụy, năm thứ 6, tức năm 1039, tự xưng là Chiêu Thánh Hoàng đế đổi tên châu Quảng Nguyên làm nước Trường Sinh; rồi cho xây thành, xây cung điện tại Na Lữ.
Năm 1414, giặc Minh cai trị nước ta, ở Cao Bằng, chúng đặt quan Thái thú cho đóng quân ở gò Đống Lân, thành Na Lữ, bắt nhân dân đóng sưu thuế nặng, đàn áp và hà hiếp, cuộc sống của nhân dân vô cùng cực khổ. Trước tình hình đó, Bế Khắc Thiệu - một hào trưởng giàu có ở Cao Bằng đã chiêu quân đứng lên khởi nghĩa, đồng thời liên kết với Nông Đắc Thái tổ chức đánh giặc. Nông Đắc Thái giỏi việc cung nỏ, có đội quân hàng trăm người, bắn trăm phát trăm trúng; Bế Khắc Thiệu giỏi việc quân, được tôn làm chủ tướng. Với ngọn cờ khởi nghĩa “Khắc Thiệu vi vương”, “Đắc Thái vi thần” đã giành được thắng lợi sau trận kịch chiến ở Nà Khuổi (tháng 9-1426), tiêu diệt trên 4.000 quân giặc, bắt sống tướng giặc. Bế Khắc Thiệu xưng là Bế Đại vương, phong cho Nông Đắc Thái là Nông Nguyên soái đóng đô ở thành Na Lữ, cho quân tu sửa lập lại cung điện năm 1430.
Năm 1592, nhà Mạc chạy lên Cao Bằng, Mạc Kính Cung chiếm lấy thành Na Lữ lập cung điện. Sau ba đời sinh sống ở Cao Bằng đến thời Mạc Kính Vũ bị quân Lê - Trịnh đánh bại. Nhà Mạc bỏ cung điện và thành Na Lữ chạy sang Trung Quốc.
Năm Chính Hòa thứ 3 đời vua Lê Hy Tông, tức năm 1682, quan trấn thủ Cao Bằng là Lê Văn Hải đã tâu xin vua Lê cho sửa chữa thành Na Lữ cũ làm đền thờ vua Lê Thái Tổ (Đền Vua Lê hiện nay). Lấy áo bào và thanh kiếm thờ ở chỗ ngai vàng.
Trong thời kỳ chống Pháp, đền Vua Lê là trung tâm hoạt động bí mật của Đảng ta, điểm hội tụ của những người dân yêu nước. Tại Đền Vua Lê, năm 1936, đồng chí Hoàng Đình Giong từ nước ngoài về nước phối hợp với đồng chí Nam Cao, triệu tập cuộc họp Tỉnh ủy mở rộng tại đền Vua Lê để phổ biến Nghị quyết Đại hội I của Đảng, củng cố tổ chức Đảng, thành lập “Đoàn thanh niên phản đế”, làm nòng cốt vận động quần chúng nhân dân các dân tộc đấu tranh.
Năm 1942, tại đền Vua Lê diễn ra hội nghị chỉ đạo của Tỉnh ủy Cao Bằng gồm 6 đại biểu: Lã, Hoàng Sâm, Hoàng Tô, Lê Khương, Dương Mạc Thạch, Lê Tòng; hội nghị nhất trí cử đồng chí Lê Tòng làm Bí thư.
Năm 1944, tại đền diễn ra hội nghị Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng, do đồng chí Lã chủ trì cuộc họp, đồng chí Lã được hội nghị nhất trí bầu làm Bí thư. Tháng 9/1945 tại đền là nơi tập trung tiễn quân đi Nam Tiến.
Trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước, Nhà máy Giấy Cao Bằng đã sơ tán vào đền Vua Lê, sau đó Trường Đảng của tỉnh đến dựng lớp học phía trước đền. Qua nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, đền được tu sửa nhiều lần.